NGÔI NHÀ TRÁI TIM
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

NGÔI NHÀ TRÁI TIM

Hãy cho - Hãy nhận - Hãy sống bằng cả con tim
 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Các dạng trí thông minh

Go down 
Tác giảThông điệp
peterduynguyen
Admin
peterduynguyen


Tổng số bài gửi : 143
Join date : 18/04/2010

Các dạng trí thông minh Empty
Bài gửiTiêu đề: Các dạng trí thông minh   Các dạng trí thông minh Icon_minitimeFri Dec 31, 2010 7:33 am

Các dạng trí thông minh (8 dạng):
Dựa vào 8 dấu hiệu nhận biết trí khôn, H.Gardner đã chia ra thành 7 loại trí thông minh tương ứng. Những nghiên cứu về sau ông đã tách ra loại trí tuệ thứ 8.

1. Trí thông minh ngôn ngữ:
Là khả năng làm chủ được ngôn ngữ và diễn đạt bằng lời hay chữ viết. Các thao tác cơ bản của trí tuệ ngôn ngữ là: ngữ âm, cú pháp, ngữ nghĩa và thực hành ngôn ngữ. Họ có thể tranh cãi, thuyết phục, làm trò hay làm hướng dẫn có hiệu quả bằng việc sử dụng lời nói. Họ thường yêu thích các cách sử dụng âm thanh của từ ngữ, thông qua sự chơi chữ, trò đố từ và cách uốn lưỡi. Đôi khi họ cũng hay đưa tin vặt bởi vì họ có khả năng nhớ các sự kiện. Họ có thể trở thành các bậc thầy về đọc và viết. Họ đọc một cách tham lam, có khả năng viết một cách rõ ràng và có thể phóng đại ý nghĩa lên theo các cách khác nhau từ những tin bài báo, bức ảnh bình thường.
VD: Nhà đối ngoại, nhà ngoại giao, các phóng viên, người kể chuyện, các nhà thơ và luật sư. Loại tư duy này đã đem lại cho chúng ta tác phẩm "Vua Lear" của Shakespeare, "Odyssey" của Homer và truyển thuyết "Nghìn lẻ một đêm" của người Ả Rập.

2. Trí thông minh âm nhạc:
Yếu tố chính trong trí tuệ âm nhạc là khả năng nhạy cảm với các hệ thống dấu hiệu âm thanh, có khả năng cảm nhận các nột nhạc, giai điệu, nhịp điêị của chúng, khả năng sang tạo ra các tác phẩm có tính âm nhạc. Trí thông minh về âm nhạc có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt, có thế hát theo giai điệu, biết dành thời gian cho âm nhạc và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc khác nhau với sự chính xác và sáng suốt của các giác quan.
VD: Các ca sĩ, nhạc sĩ… Đó là trí thông minh của Bach, Beethoven, hay Brahon, và cũng là loại trí thông minh của các nhạc công đàn cầm người Ba-li hay những người hát sử thi của dân tộc Nam Tư.

3. Trí thông minh logic - toán:
Loại trí thông minh này cho ta khả năng tính toán phức tạp và lí luận sâu sắc. Những nét tiêu biểu nhất của người thiên về trí thông minh lô-gic - toán học gồm có khả năng xác định nguyên nhân, chuỗi các sự kiện, cách tư duy theo dạng nguyên nhân - kết quả, khả năng sáng tạo các giả thuyết, tìm ra các mô hình số học hoặc quy tắc dựa trên các khái niệm, đồng thời ưa thích các quan điểm dựa trên lý trí trong cuộc sống nói chung. Họ có khả năng nhìn thấu suốt vấn đề và cảm nhận được giải pháp trước khi đưa ra những bằng chứng. Trí tuệ này thường nổi bật ở những năm còn trẻ.
VD: Các nhà khoa học. Newton đã điều khiển và khai thác được loại trí thông minh này khi ông phát minh ra các phép tính vi phân. Einstein cũng tương tự khi ông xây dựng và phát triển học thuyết tương đối của mình.

4. Trí thông minh thị giác – không gian (Khả năng tưởng tượng không gian)
Đây là khả năng tri giác và làm thấy rõ về không gian của các vật. Khả năng này iên quan đến suy nghĩ bằng hình ảnh, hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau của thế giới không gian trực quan. Những cá nhân sở hữu loại trí thông minh về không gian ở mức độ cao, thường có một độ nhạy cảm sắc bén với những chi tiết cụ thể trực quan và có thể hình dung được một cách sống động, vẽ ra hay phác họa những ý tưởng của họ dưới dạng hình ảnh, đồ họạ, cũng như họ có khả năng tự định hướng bản thân trong không gian 3 chiều một cách dễ dàng.
VD: Đó là mảnh đất sáng tạo của các kiến trúc sư, nhà nhiếp ảnh, nghệ sĩ, các phi công và các kĩ sư cơ khí máy móc. Người đã từng thiết kế lên các Kim tự tháp Ai Cập là người có rất nhiều trí thông minh loại này. Cũng có khả năng như vậy là các cá nhân như Thomas Edison, Pablo Picasso và Ansel Adam.

5. Trí thông minh vận động (năng lực điều khiển cơ thể)
Đây là khả năng tạo hay tái tạo một điệu bộ phù hợp với hoàn cảnh, khả năng kiểm soát cơ thể và điều khiển các đồ vật bằng tay. Ở đây, cơ thể tham gia trực tiếp giải quyết vấn đề thường nhanh hơn cả trí thông tuệ. Các cá nhân thuộc loại tài năng vận động thân thể có thể rất khéo léo và thành công trong nghề thêu may, nghề thợ mộc hay nghề tạo mẫu. Hoặc họ có thể ham thích và theo đuổi những hoạt động của cơ thể như đi bộ đường dài, khiêu vũ, chạy bộ, cắm trại, bơi lội hoặc đua thuyền. Họ là những người thực hành, nhạy cảm, thường xuyên muốn vận động cơ thể của họ và có "phản ứng bản năng" với các tình huống, sự vật.
VD: Diễn viên múa, kịch câm… Các vận động viên thể thao, những người làm nghề thủ công, những thợ cơ khí và các bác sĩ phẫu thuật là những người sở hữu khả năng này của tư duy. Cũng là người như vậy, diễn viên hài vĩ đại Charlie đã sử dụng tài năng loại này để thực hiện được rất nhiều động tác biểu diễn tài tình của ông như trong vở Kẻ lang thang nhỏ bé.

6. Trí thông minh liên cá nhân:
Là khả năng tạo ra mối quan hệ với người khác và thấu hiểu người khác. Họ có khả năng thấu cảm, thông minh, khôn ngoan trong quan hệ xã hội.
VD: Thuyền trưởng trên một chiếc tàu đi biển cần phải có loại thông minh này. Trí thông minh này cũng cần cho một nhà quản lý của một tổng công ty lớn. Một cá nhân có trí thông minh về giao cảm có thể rất giàu lòng trắc ẩn và đầy tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, chẳng hạn như Mahatma Gandhi; hoặc là người có sức lôi cuốn và khéo léo như Machiavelli, nhưng họ đều có khả năng nhìn thấu suốt vào bên trong của những người khác và từ đó nhìn ra viễn cảnh của thế giới bên ngoài bằng chính cặp mắt của những con người đó. Trong thực tế, họ rất tuyệt vời với vai trò của người môi giới, quản trị mạng, người hoà giải hoặc là thầy giáo, vị linh mục.

7. Trí thông minh nội tâm:
Đây là khả năng cơ bản hiểu biết những cảm xúc, tình cảm của bản thân; khả năng phân biệt, biểu hiện xúc cảm bằng hệ thống ký hiệu. Một người mạnh mẽ về loại trí tuệ này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm xúc của chính bản thân mình, phân biệt được giữa nhiều loại trạng thái tình cảm bên trong và sử dụng chính những hiểu biết về bản thân mình để làm phong phú thêm và vạch ra con đường cho cuộc đời mình. Họ có thể là người rất hay tự xem xét nội tâm và ham thích được trầm tư suy nghĩ, được ở trong trạng thái tĩnh lặng hay trong các trạng thái tìm hiểu tinh thần một cách sâu sắc khác. Mặt khác họ có thể là người có tính độc lập mạnh mẽ, tính thẳng thắn cao độ và cực kỳ tự giác, có kỷ luật. Trong bất cứ trường hợp nào, họ thuộc dạng tự lập và thích làm việc một mình hơn là làm việc với người khác. Trẻ tự kỷ là biểu hiện rõ rang về khiếm khuyết của năng lực này, những người thành công là người hiểu rõ chính mình, có thể định hướng tốt nhất cách cư xử và sử dụng kiến thức của mình trong mọi tình huống thích hợp.
VD: Những người có trí thông minh thiên về kiểu này gồm có các nhà cố vấn, nhà thần học, những thương nhân.

8. Trí thông minh tự nhiên học:
Loại trí thông minh này cho phép con người phân biệt, xếp hạng và sử dụng các điểm đặc trưng của các sự vật trong môi trường sống.
VD: Nhà bác học S.Darwin.

*Tóm lại:
H.Gardner cho rằng mọi người đều có các loại trí thông minh nêu trên. Nhưng giữa các cá nhân khác nhau về trình độ mỗi loại trí thông minh và khả năng kết hợp chúng.


*Có thể tham khảo thêm:

Cơ sở cho học thuyết bảy loại hình thông minh?

Trong học thuyết trí thông minh đa dạng, Gardner đã thiết lập được các yêu cầu cần thiết đặc trưng mà mỗi loại trí thông minh phải đạt được để có đủ điều kiện xác định đó là một loại trí thông minh. Sau đây là 4 trong số các tiêu chuẩn ấy:

Đặc điểm 1: Mỗi trí thông minh có khả năng được biểu tượng hoá.

Thuyết trí thông minh đa dạng đã đưa ra một khía cạnh về khái niệm trí thông minh, cho rằng khả năng biểu tượng hoá trong tư duy con người hay khả năng diễn đạt những ý tưởng, kinh nghiệm thông qua sự miêu tả các hình ảnh, con số và các từ ngữ, là dấu hiệu để xác nhận đó là trí thông minh của con người.

Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, có nhiều cách khác nhau mà mỗi loại trí thông minh có thể sử dụng để biểu tượng hoá. Những người có tư duy lô-gic toán học sử dụng các con số và các chữ số Hy Lạp, trong số các loại ký hiệu khác, để đáp ứng các tư duy và nhu cầu có tính lý trí của họ.

Ở một mặt khác, những nhà soạn nhạc hoặc nhạc sĩ lại thường hay sử dụng các nốt nhạc trầm bổng để biểu tượng hóa các giai điệu và tiết tấu của họ. Marcel Marcean lại sử dụng các cử chỉ động tác phức tạp và sự diễn giải bằng các dấu hiệu của vận động thân thể để biểu diễn các khái niệm như sự tự do và trạng thái cô đơn. Ngoài ra cũng còn các ký hiệu mang tính xã hội, chẳng hạn như cái vẫy tay chào tạm biệt và những ký hiệu của cái tôi, như đã biết, thí dụ như các hình ảnh của giấc mơ vào buổi sáng sớm.


Đặc điểm 2: Mỗi trí thông minh đều có một lịch sử phát triển của riêng nó.

Trí thông minh không phải là một điều gì lạ thường có tính tuyệt đối như những người trung thành với quan niệm về trí thông minh theo kiểu chỉ số IQ. Những người này cho rằng trí thông minh được sinh ra rồi được duy trì ổn định, bền vững trong suốt cả chiều dài cuộc đời của mỗi người.

Theo thuyết trí thông minh đa dạng, mỗi loại trí thông minh biểu hiện ra vào một thời điểm xác định trong thời thơ ấu, chúng đều có một chu kỳ bộc lộ và phát triển tiềm năng rực rỡ trong chiều dài cuộc đời, và bao gồm cả việc mỗi loại có một hình mẫu duy nhất về quá trình suy giảm nhanh chóng hay từ từ khi một người bị già đi. Nhà soạn nhạc vĩ đại Mozart đã sáng tạo ra những âm điệu đơn giản từ khi lên 3 tuổi và viết được những bản giao hưởng vào năm lên 9 tuổi. Những tài năng âm nhạc vẫn được duy trì và còn tương đối lớn mạnh cả khi tuổi đời đã cao, bằng chứng trong cuộc sống thực tế là những nhà sáng tác như Pablo Casals, Igor Stravinsky và George Friedrich Handel.

Loại tư duy lô-gic toán học, một mặt khác, lại có kiểu mô hình phát triển khác với loại trên. Loại này xuất hiện hơi muộn một chút trong thời thơ ấu, phát triển đạt đến đỉnh cao vào thời thanh niên, sau đó suy giảm muộn hơn trong cuộc đời của con người. Nhìn vào lịch sử của tư duy toán học, ta nhận thấy có một số khám phá lớn trong toán học do những nhà bác học có tuổi đời ngoài 40 tuổi. Sự thực là, nhiều khám phá quan trọng là của những người còn ở độ tuổi niên thiếu, chẳng hạn như Blaise Pascal và Evaiste Galois. Thậm chí Albert Einstein đã đạt được những hiểu biết sâu sắc ban đầu về thuyết tương đối khi ông mới 16 tuổi.

Tương tự như vậy, mỗi loại trí thông minh có một mô hình tăng trưởng, phát triển và suy giảm theo cách riêng của mình, trong vòng đời của con người.


Đặc điểm 3: Mỗi trí thông minh đều sẽ tổn thương và biến mất khi có các tác động xâm phạm và gây hại đến những vùng đặc trưng riêng biệt của nó trong bộ não người.

Thuyết về trí thông minh đa dạng tiên đoán rằng trong thực tế, trí thông minh có thể bị cô lập khi bộ não bị tổn thương. Gardner đã đưa ra ý kiến là: Nhằm mục đích được công nhận và có thể tồn tại, bất kỳ một lý thuyết nào về trí thông minh đều phải dựa trên cơ sở sinh học, nghĩa là được bắt nguồn từ cấu trúc vật chất của não bộ. Với vai trò là một nhà tâm lý học thần kinh ở Ban quản lý cựu chiến binh Boston, Gardner đã làm việc với những bệnh nhân bị tổn thương não, một phần nào đó trong 7 loại trí thông minh của họ bị ảnh hưởng, thí dụ như: Một người có thương tích ở thuỳ trước trán trong bán cầu não trái thì không thể nói và viết bình thường được nhưng vẫn có thể hát, vẽ, và nhảy múa không hề có một chút khó khăn nào. Trong trường hợp này thì trí thông minh về ngôn ngữ của anh ta đã bị suy giảm, hư hại một phần. Mặt khác, những người bị thương ở thuỳ thái dương bên phải có thể khó khăn khi thực hiện những công việc mang tính chất âm nhạc, nhưng anh ta có thể nói, đọc và viết một cách dễ dàng. Những bệnh nhân bị thương ở thuỳ chẩm của bán cầu não bên phải có thể bị suy giảm đáng kể những khả năng về nhận biết gương mặt, khả năng quan sát hoặc nhận biết những chi tiết trực quan.

Lý thuyết về trí thông minh còn đang tranh luận về việc có tồn tại hay không 7 hệ thống của não bộ hoạt động một cách tương đối độc lập. Trí thông minh ngôn ngữ xem ra như là một chức năng chính của bán cầu não trái ở đa số mọi người, trong khi trí thông minh về âm nhạc, không gian và năng lực tương tác có xu hướng tập trung tại bán cầu não phải nhiều hơn. Trí thông minh về năng lực vận động thân thể gồm có vỏ não vận động, những hành thần kinh cơ sở và bộ phận trước não. Thuỳ trước trán là đặc biệt quan trọng đối với trí thông minh của con người.

Bộ não là một tổ hợp phức tạp lạ thường đến mức khó tin nên không thể phân chia ra được một cách rõ ràng thành 7 khu vực có ranh giới như bản đồ. Tuy nhiên, lý thuyết về trí thông minh đa dạng đã tổng hợp những kết quả đã được khám phá trong hơn 20 năm qua trong lĩnh vực tâm lý học thần kinh theo một cách riêng biệt đáng được chú ý.


Đặc điểm 4: Mỗi loại trí thông minh có những nền tảng giá trị văn hoá riêng của nó.

Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, những biểu lộ của trí thông minh được đánh giá một cách tốt nhất bằng việc nhìn vào những khả năng đóng góp cao nhất của nó đối với xã hội, chứ không phải là việc giành được kết quả tốt hay không trong các cuộc kiểm tra. Những kỹ năng tiêu biểu cho việc kiểm tra chỉ số IQ, chẳng hạn như khả năng lặp lại những con số ngẫu nhiên theo chiều thuận hoặc chiều ngược, hay năng lực để giải quyết những vấn đề nào đó có tính chất tương tự như vậy, là làm hạn chế những giá trị văn hoá có trong trí thông minh của con người.

Trên một phương diện khác, điều gì đã đem lại những thành tựu và tiến bộ xã hội của chúng ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác như những truyện cổ tích, truyện thần thoại, tác phẩm văn học, âm nhạc, những môn nghệ thuật lớn, những khám phá khoa học và những kỹ năng vật lý.

Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, cách tốt nhất để chúng ta có thể học được những điều thông minh là nghiên cứu, học tập những thí dụ về các công trình văn hoá có ích nhất cho xã hội chúng ta, đối với từng loại trong số 7 lĩnh vực, chẳng hạn: Tác phẩm Moby Dick của Herman Melville tốt hơn là những âm tiết vô nghĩa trong cẩm nang tra cứu tâm lý; Guernica của Pablo Picasso tốt hơn những thiết kế hình học trong những bài kiểm tra tính suy luận không gian; tác phẩm Magna Carta hay Sermon trên núi tốt hơn là "thước đo Vineland" về tính trưởng thành xã hội.

Ở một mức độ xa hơn nữa, thuyết trí thông minh đa dạng tán thành và ca ngợi tính đa dạng trong cách mà trí thông minh được thể hiện ở những nền văn hoá khác nhau. Ở đây không coi các khám phá về từ ngữ và toán học của những người châu Âu da trắng như đỉnh cao của trí thông minh (mà nếu theo quan niệm này, một lần nữa sự kiểm tra trí tuệ bằng chỉ số IQ lại được ủng hộ và duy trì), thuyết trí thông minh đa dạng cung cấp một phạm vi quan niệm rộng lớn về trí thông minh của con người. Trong biểu đồ về trí thông minh này, các loại khả năng về trí tuệ của con người đều được ca ngợi và tôn trọng như nhau, đó là tài năng tìm đường của những người dân Himalaya, phương pháp phân loại phức tạp của thổ dân Nam Phi tộc Kalahan, những thiên tài âm nhạc của nền văn hoá Arang ở đất nước Nigieria, các hệ thống vẽ bản đồ độc nhất vô nhị của những người đi biển dân tộc Polynesia, và những khả năng đặc biệt của nhiều người khác trên khắp thế giới.

Bổ sung thêm vào các đặc điểm nội dung trên, thuyết còn đưa ra ý kiến là mỗi loại thông minh có một quá trình xử lý nhận thức riêng biệt của mình trong các hoạt động của trí nhớ, sự tập trung, tri giác và cách giải quyết vấn đề. Thậm chí 7 loại trí thông minh còn có cả lịch sử tiến hoá riêng của mỗi loại.Trí thông minh về âm nhạc có một phần hàm chứa tiếng hót của chim muông, trong khi trí thông minh về vận động thân thể xuất hiện từ những hoạt động săn bắn trong những giai đoạn sơ khai đầu tiên của lịch sử loài người. Những ai muốn thấy các số liệu có thể định lượng được về những vấn đề trên thì chính các kết quả kiểm tra tâm lý và nghiên cứu thực nghiệm sẽ là một sự ủng hộ và khẳng định. Lý thuyết về trí thông minh đa dạng không chỉ là một ý kiến đơn thuần. Nó được lập nên từ việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu mới nhất của những đề tài khoa học về trí thông minh đang hiện hành.


Khám phá 7 loại hình thông minh của bạn?

Bây giờ bạn đã biết được một vài điều về cơ sở khoa học của thuyết 7 loại hình thông minh này, hãy xem xem bản thân bạn sẽ khớp với mỗi loại hình thông minh đến mức nào. Nhưng một câu hỏi đặt ra là: "Có bài kiểm tra nào có thể thử làm để biết được trí thông minh của bạn ra sao hay không?". Mặc dù vẫn có nhiều bài kiểm tra cá nhân trên thực tế, chúng đánh giá những khía cạnh khác nhau của 7 loại hình thông minh, nhưng cách tốt nhất để khám phá xem các kiểu thông minh của bạn nhiều đến mức nào chính là thông qua sự đánh giá trung thực nhất bằng việc xem bạn đã ứng dụng như thế nào trong cuộc sống hàng ngày.

Hãy xem xét những gì bạn làm hàng ngày, như là việc sử dụng điện thoại. Bạn có các kỹ năng gì để ghi nhớ các số điện thoại? Bạn có lặp lại các con số điện thoại bằng cách tự lẩm nhẩm khẽ đọc chúng trước khi quay số hay không? Nếu có thì đó là bạn đang sử dụng năng lực ngôn ngữ đấy. Hay bạn hình dung ra được các phím cần bấm trên mặt máy điện thoại như tấm bản đồ có dạng một mạng kẻ ô vuông. Điều đó phản ánh môt kiểu trí tuệ tư duy theo không gian trong công việc. Một điều nữa là trí thông minh của một người được sinh ra từ các hoạt động hàng ngày như tiến hành một cuộc gọi điện thoại chẳng hạn, chứ không phải những vấn đề và công việc được lập ra để kiểm tra như những gì tìm thấy trong một bài kiểm tra IQ.

Không có một nhóm các khả năng được sắp xếp sẵn từ trước nào đó có thể định nghĩa được toàn bộ trí thông minh của bạn. Mặc dù vậy, bạn có thể tiến gần đến việc hiểu được kiểu suy nghĩ của bạn bằng cách khảo sát một ví dụ tiêu biểu trong số các sự kiện vẫn diễn ra thường xuyên trong cuộc đời của bạn. Danh sách kiểm tra với những đề mục sau đây sẽ giúp bạn làm điều này. Đừng coi danh sách kiểm tra này như là những gì quyết định cuối cùng về 7 loại hình trí tuệ của bạn. Còn có nhiều bài tập và các hoạt động khác, chúng sẽ bổ sung thêm vào vốn hiểu biết của bạn cách làm thế nào để bạn đạt được hiệu quả cao nhất. Hãy nghĩ danh sách kiểm tra này đơn giản chỉ là một cách để bắt đầu khám phá khi bạn muốn tìm đáp số thực về trí thông minh của bản thân mình. Đối với từng loại trí thông minh, bạn hãy kiểm tra xem những quan điểm dưới đây có đúng khi áp dụng đối với bạn hay không:


Trí thông minh ngôn ngữ:
• Những quyển sách rất quan trọng đối với tôi.
• Tôi có thể nghe thấy những từ vang lên trong đầu mình trước khi đọc, nói hay viết chúng ra.
• Tôi nghe đài hoặc nghe băng nhiều hơn là xem ti vi hay xem phim.
• Tôi có khả năng từ ngữ trong các trò chơi như sắp xếp chữ, đảo chữ hay mật khẩu.
• Tôi thích giải trí hay chơi những trò nào mà có sự xoắn lưỡi, có những âm điệu vô nghĩa hay có sự chơi chữ.
• Đôi khi những người khác phải dừng lại và đề nghị tôi giải thích ý nghĩa của những từ ngữ mà tôi sử dụng khi viết và nói.
• Tiếng Anh, các môn học xã hội và lịch sử đối với tôi dễ hơn nhiều so với môn toán và khoa học trong thời gian tôi còn đi học phổ thông.
• Khi lái xe thong thả trên xa lộ, tôi có sự chú ý vào những từ ngữ viết trên bảng quảng cáo nhiều hơn chú ý quang cảnh xung quanh.
• Cuộc nói chuyện, trao đổi của tôi thường liên quan đến những thông tin tham khảo mà tôi vừa được đọc hoặc nghe thấy.
• Gần đây tôi đã viết về một số điều đã làm tôi đặc biệt tự hào hoặc những điều giúp tôi được nhận ra giữa những người khác.
• Những năng lực ngôn ngữ khác: ...

Trí thông minh lôgic:
• Tôi có thể dễ dàng tính toán các con số trong đầu.
• Toán và/hoặc các môn khoa học là những môn học được tôi yêu thích trong số những môn khi còn học ở nhà trường.
• Tôi thích thú với các trò chơi hay giải các câu hỏi hóc búa mang tính trí óc mà chúng đòi hỏi phải có suy nghĩ lô-gic.
• Tôi thích nghĩ ra và làm các thí nghiệm mà có một chút tính chất là "cái gì xảy ra" (Thí dụ như: "cái gì sẽ xảy ra nếu tôi tăng gấp đôi số lượng nước tôi tưới hàng tuần vào bụi hoa hồng của tôi").
• Suy nghĩ của tôi là tìm tòi những khuôn dạng, luật lệ hay những trật tự có tính lô-gic trong các sự vật, sự việc.
• Tôi ham thích và hứng thú với những phát triển, tiến bộ mới của khoa học.
• Tôi tin tưởng rằng hầu hết mọi thứ đều có một cách lý giải hợp lý, chặt chẽ.
• Đôi khi tôi tư duy bằng những khái niệm trừu tượng, tách biệt rõ ràng, không có từ ngữ và hình ảnh.
• Tôi thích tìm kiếm những thiếu sót mang tính lô-gic trong những thứ mà mọi người nói và làm ở nhà và trong công việc.
• Tôi cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn khi có một điều gì đó được đo đạc, xếp loại, phân tích và định lượng theo một phương pháp nào đó.

Trí thông minh không gian:
• Tôi thường thấy được rõ ràng hình ảnh hiện lên khi tôi nhắm mắt lại.
• Tôi nhạy cảm với màu sắc.
• Tôi thường sử dụng máy quay phim hoặc máy ảnh để ghi lại những gì tôi nhìn thấy ở xung quanh mình.
• Tôi thích thú với việc giải câu đố xếp hình, mê cung hay những câu đố khác sử dụng hình ảnh.
• Tôi có những giấc mơ đầy hình ảnh sống động vào ban đêm.
• Nói chung, tôi có thể nhìn thấy đường của mình cả ở những khu vực, địa bàn không quen biết.
• Tôi thích vẽ hoặc viết nguệch ngoạc mộtcách lơ đãng.
• Khi còn đi học phổ thông, đối với tôi môn hình học dễ hơn nhiều so với môn đại số.
• Tôi có thể tưởng tượng một cách thoải mái về hình ảnh của một sự vật hoặc một cảnh bất kỳ nào đó sẽ được hiện ra như thế nào, khi được nhìn từ trên cao xuống bằng đôi mắt của con chim đang bay.
• Tôi thích nhìn ngắm một tài liệu có nhiều hình ảnh minh hoạ hơn là đọc nó.

Trí thông minh vận động cơ thể:
• Tôi tham gia ít nhất một môn thể thao hoặc hoạt động thân thể đều đặn và thường xuyên.
• Tôi thấy thật khó khăn khi phải ngồi lỳ một chỗ trong một khoảng thời gian dài.
• Tôi thích làm việc bằng bàn tay với những công việc, hoạt động có tính cụ thể như nghề làm may, nghề thêu, chạm khắc, nghề thợ mộc hoặc tạo mẫu.
• Những ý tưởng tốt nhất thường đến với tôi khi đang đi dạo hoặc chơi đùa ở bên ngoài, hoặc khi tôi tham gia vào một vài hoạt động cơ thể khác nào đó.
• Tôi thường thích được dùng thời gian rỗi rãi để đi ra ngoài.
• Tôi thường sử dụng các cử chỉ phức tạp của tay hoặc các dạng khác của ngông ngữ cơ thể khi đối thoại, nói chuyện với một người nào đó.
• Tôi cần được chạm vào các thứ để có thể hiểu rõ hơn về chúng.
• Tôi ham thích được chơi các trò chơi tiêu khiển liều lĩnh, táo bạo hoặc tham gia các hoạt động thân thể tương tự, có thể đem lại cảm giác mạnh, hồi hộp, sợ hãi với người chơi.
• Tôi có thể tự vận động tốt cũng như khi phối hợp với người khác.
• Tôi cần được thực tập một kỹ năng mới nhiều hơn là chỉ đọc về nó một cách đơn thuần hay xem một băng video mô tả về nó.

Trí thông minh âm nhạc:
• Tôi có một giọng hát dịu dàng.
• Tôi có thể biết và phân loại được khi có một nốt nhạc bị lạc điệu (bị sai).
• Tôi thường nghe nhạc ở đài phát thanh, ở đĩa hát, ở băng từ hay ở đĩa CD.
• Tôi chơi được một nhạc cụ.
• Cuộc sống của tôi sẽ thật nghèo nàn, đơn điệu nếu trong đó không có âm nhạc.
• Đôi khi tôi tự nhận thấy mình đang đi bộ trên đường phố với những đoạn quảng cáo trên ti vi được lặp đi lặp lại trong đầu hoặc những giai điệu nào đó đang lướt qua trong ý nghĩ.
• Tôi có thể dễ dàng dành thời gian để nghe một đoạn nhạc được chơi với chỉ một dụng cụ gõ đơn giản.
• Nếu tôi nghe một bản nhạc được tuyển chọn nào đó, sau một hặc hai lần được nghe, tôi thường có thể hát lại chúng một cách tương đối chính xác.
• Tôi thường tạo ra các âm thanh gõ nhè nhẹ hoặc hát những giai điệu nhỏ trong khi làm việc, nghiên cứu hoặc làm một điều gì mới.

Trí thông minh tương tác cá nhân:
• Tôi thuộc dạng người mà những người khác tìm đến để nghe lời khuyên và tư vấn của tôi về công việc hoặc về những hàng xóm của tôi.
• Tôi thích những môn thể thao có tính đồng đội như cầu lông, bóng chuyền, hay bóng mềm hơn là những môn thể thao mang tính cá nhân như môn bơi lội hoặc cưỡi ngựa.
• Khi gặp phải rắc rối, khó khăn, tôi thích đi tìm một người khác giúp đỡ tôi hơn là việc tôi cố gắng làm việc để giải quyết được những vướng mắc, khó khăn của bản thân.
• Tôi có ít nhất là 3 người bạn thân.
• Tôi yêu thích những trò tiêu khiển có nhiều người tham gia như chơi bài brít hoặc bài Monopoly hơn là những trò chơi trên máy hoặc trò đánh bài một người.
• Tôi thấy thích thú khi có cơ hội được dạy người khác hoặc hướng dẫn cho một nhóm người làm những điều gì tôi đã biết cách làm.
• Tôi tự coi mình là người lãnh đạo (hoặc những người khác gọi tôi như vậy).
• Tôi cảm thấy thoải mái khi ở giữa một đám đông người.
• Tôi thích tham gia vào những hoạt động xã hội có liên quan đến vông việc của tôi, liên quan đến nhà thờ hoặc cộng đồng.
• Tôi sẽ muốn dành các buổi tối để tham gia các cuộc hội họp đông người sống động hơn là ở nhà một mình.

Trí thông minh nội tâm:
• Tôi thường để thời gian một mình nghiền ngẫm, trầm ngâm hoặc suy nghĩ về những vấn đề quan trọng trong cuộc sống.
• Tôi đều đặn đến dự các buổi tư vấn hoặc các cuộc hội thảo về sự trưởng thành của con người để hiểu biết nhiều hơn nữa về bản thân mình.
• Tôi có những chính kiến khác hẳn làm cho tôi tách biệt với đám đông người.
• Tôi có một sự hứng thú hoặc sở thích đặc biệt trong việc giữ kín thật nhiều điều tốt đẹp cho bản thân.
• Tôi có một cách nhìn thực tế về những mặt mạnh và điểm yếu của bản thân mình (những điều này đã được khẳng định nhờ thông tin phản hồi từ nhiều nguồn tin khác).
• Tôi sẽ thích được ở một mình suốt cả thời gian cuối tuần trong một căn hầm nhỏ ở giữa rừng hơn là ở một khu nghỉ mát hấp dẫn có rất nhiều người xung quanh.
• Tôi tự coi mình là người có ý chí mạnh mẽ hoặc là người có khuynh hướng độc lập.
• Tôi giữ một cuốn sổ nhật ký cá nhân hoặc một cuốn sổ ghi lại những sự kiện trong đời sống nội tâm của mình.
• Tôi tự làm việc cho mình hoặc ít nhất là có những suy nghĩ nghiêm chỉnh về việc bắt đầu công việc hoặc nghề nghiệp của riêng mình.


Lời kết:

Bạn hãy nhớ rằng, cho dù bạn có nhận thấy một cách rõ ràng bản thân mình thuộc một hoặc hai dạng thông minh trong số các loại đã được mô tả ở trên, thì trong thực tế bạn vẫn luôn luôn sở hữu tất cả 7 loại trí thông minh. Hơn thế nữa, một cách lý tưởng là bất kỳ một người bình thường nào cũng có thể phát triển một trong số 7 loại trí thông minh nói trên của tư duy đến một mức độ đáng kể để có thể sử dụng thành thạo.

Trong cuộc đời chúng ta, 7 loại hình thông minh được thể hiện theo cách khác nhau và duy nhất ở mỗi người, không có ai giống ai. Rất hiếm khi có người đạt được một mức độ thông minh cao ở đầy đủ cả 6 hoặc 7 loại trí thông minh. Vào đầu thể kỷ XX, nhà tư tưởng người Đức Rudolf Steiner có thể được coi là một ví dụ về người có trí tuệ thông minh như vậy. Ông là một nhà triết học, nhà văn và là một nhà khoa học. Ông cũng là người sáng tạo ra một loạt các điệu nhảy, học thuyết về màu sắc và một hệ thống dụng cụ làm vườn, đồng thời ông còn là nhà điêu khắc, nhà nghiên cứu xã hội cũng như là một kiến trúc sư.
Mặt khác có một số người có vẻ như đã phát triển và đạt đến một trình độ cao chỉ một loại trí thông minh nào đó, trong khi các loại trí thông minh khác của họ lại phát triển chậm hơn nhiều và kén hẳn. Đây chính là những nhà bác học của thế giới loài người. Những người giống như nhân vật Raymond trong bộ phim The Rain Man (Người đàn ông trong mưa) đã đoạt giải Oscar, đây là những người có thể tính toán các con số bằng tốc độ của ánh sáng nhưng không thể tự chăm sóc bản thân họ. Hay những cá nhân sở hữu tài năng về điêu khắc song lại không thể đọc được, hay có những người có khả năng xướng âm một cách hoàn hảo nhưng lại cần người khác giúp buộc dây giày của họ.
Đa số trong chúng ta là những người có phẩm chất trí tuệ ở vào khoảng giữa của nhà bác học với một con người tự nhiên phát triển bình thường trong thực tế. Mỗi chúng ta thường có một vài loại trí thông minh dường như nổi trội một chút, một vài loại trí thông minh khác có thể đạt vào loại trung bình và vài loại khác nữa được xem như là gây khó khăn cho chúng ta trong cuộc sống. Dù sao đi nữa, điều quan trọng chúng ta cần phải hiểu là còn có nhiều cơ hội cho tất cả mọi người để phát triển và toả sáng kể cả với những kiểu trí thông minh không thường được sử dụng này. Người nông dân, những bậc cha mẹ, hoạ sĩ, những thợ cơ khí, và nhà buôn cũng xứng đáng sở hữu trí thông minh nhiều như các bác sĩ tâm lý, bác sĩ phẫu thuật não hay các giáo sư luật. Luận thuyết về nhiều loại trí thông minh đã tập hợp đầy đủ hàng loạt những khả năng của con ngườivào một hệ thống gồm 7 loại trí thông minh, tài năng, những loại trí thông minh này có thể làm cho bất kỳ một cá nhân nào cũng có khả năng thành đạt trong cuộc sống và thu được kết quả mà mình mong muốn.
Dựa theo Seven Kinds Of Smart - Thomas Armstrong
Về Đầu Trang Go down
 
Các dạng trí thông minh
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Từ điển thông minh KOOLdic 2010 cực nhanh và tốn ít tài nguyên hệ thống
» Trí thông minh
» Update thông tin Miss Office- Duyên dáng văn phòng 2011
» chỉ số phát triển thông minh
» Miss Office- Duyên dáng văn phòng 2011

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
NGÔI NHÀ TRÁI TIM :: TÂM LÝ - GIÁO DỤC HỌC :: Kiến thức chuyên ngành :: Tâm lý học :: Trắc nghiệm tâm lý-
Chuyển đến